Người tìm ra châu Mỹ đầu tiên là Christopher Columbus. Ông là một nhà thám hiểm người Ý, nổi tiếng với các công cuộc thám hiểm bằng đường biển vùng Caribê, Trung Mỹ và Nam Mỹ.

Những cư dân châu Mỹ đầu tiên, 16.000-35.000 năm trước

Hầu hết tất cả các bộ lạc thổ dân châu Mỹ - Sioux, Comanche, Iroquois, Cherokee, Aztec, Maya, Quechua, Yanomani và hàng chục bộ tộc khác - nói những ngôn ngữ tương tự nhau. Điều đó cho thấy ngôn ngữ của họ đã phát triển từ một ngôn ngữ tổ tiên chung, được sử dụng bởi một bộ tộc duy nhất đến châu Mỹ từ lâu. Sự đa dạng di truyền thấp của hậu duệ cho thấy bộ tộc sáng lập này rất nhỏ, có thể ít hơn 80 người.

Họ đến đó bằng cách nào? Trước khi kỷ băng hà cuối cùng kết thúc cách đây 11.700 năm, các sông băng trữ nhiều nước đến mức mực nước biển thấp hơn bây giờ rất nhiều, để lộ ra đáy biển Bering cho họ đi bộ qua, nên có thể coi đây là chuyến di cư duy nhất không phải hải trình để tìm ra châu Mỹ.

Các nhà khảo cổ từng cho rằng người Clovis, sống cách đây 13.000 năm, là những người định cư đầu tiên của Châu Mỹ. Nhưng bằng chứng cho thấy con người đã đến châu Mỹ sớm hơn nhiều, có thể lên tới 32.000-38.000 năm trước.

Christopher Columbus, năm 1492

Vào thời điểm năm 1492, dù đã có thể khám phá các vùng đất phía Đông, thậm chí Viễn Đông bằng Con đường Tơ lụa hay hải trình vòng qua Mũi Hảo Vọng, người châu Âu vẫn tin rằng việc đi xuyên đại dương mãi về phía Tây là bất khả thi. Đại Tây Dương vốn khá đáng sợ với các thủy thủ vào thời điểm đó và họ không biết điều gì chờ đợi mình đằng sau đường chân trời hoàng hôn.

Do các tính toán sai bởi quá trình quy đổi đơn vị, cộng với một hy vọng mong manh, nhà hàng hải cứ đinh ninh rằng chỉ cần vượt khoảng 4.500km đại dương về phía Tây là ông có thể đến Nhật Bản. Columbus quá "ngán" việc vượt Mũi Hảo Vọng đến vùng Viễn Đông.

Sự thật là khoảng cách đến xứ sở mặt trời mọc từ phía Tây là 20.000km. Do tính toán sai, Columbus tất nhiên không mang đủ dự trữ để thực hiện một hải trình dài như vậy. Rất may cho ông là đoàn thuyền đã cập bến châu Mỹ.

Lại do sai lệch về địa lý, Columbus cứ nghĩ mình đã khám phá ra Đông Ấn, nên mới gọi những người dân tại đây là Anh-điêng (với từ nguyên là "Ấn Độ" trong ngôn ngữ của ông). Cho tới lúc mất, ông vẫn không nhận ra sai lầm của mình, mà phải đến 1507 khi Amerigo Vespucci phát hiện ra đó là một mảnh đất mới với người châu Âu thời đó, họ mới đặt tên nó là châu Mỹ.

Khoảng năm 1200, một nhóm dân đi biển lành nghề đã chèo thuyền từ Đài Loan (Trung Quốc) để tìm vùng đất mới. Họ đi thuyền về phía nam qua Philippines, sau đó ra Nam Thái Bình Dương rộng lớn. Những người này sau đó được gọi người Polynesia, là những nhà điều hướng bậc thầy, có thể đọc gió, sóng và các vì sao để vượt qua hàng nghìn km đại dương rộng lớn.

Sử dụng những chiếc xuồng đôi khổng lồ, người Polynesia đã định cư ở Samoa, Fiji, Tonga và quần đảo Cook. Một số đi về phía nam đến New Zealand, trở thành người Maori. Những người khác đi về phía đông đến Tahiti, Hawaii, Đảo Phục sinh và Marquesas. Từ đây, cuối cùng họ đã đặt chân đến Nam Mỹ. Tiếc là, sau khi khám phá gần hết Thái Bình Dương, họ đã từ bỏ việc khám phá và hoàn toàn quên mất Nam Mỹ.

Nhưng bằng chứng về chuyến đi đáng chú ý này vẫn còn. Người Nam Mỹ mua gà từ người Polynesia, trong khi người Polynesia có thể đã thu được khoai lang Nam Mỹ. Ngoài giao thương, người Polynesia phía Đông còn có DNA của người Mỹ bản địa, chứng minh quan hệ kết hôn giữa 2 giống dân vốn hoàn toàn xa lạ.

Theo truyện dân gian Viking, vào khoảng năm 980, Eric the Red, một thương nhân Viking xảo quyệt, đã đặt tên cho một vùng đất hoang băng giá rộng lớn là "Greenland" (Nghĩa đen: Vùng đất xanh) để lôi kéo mọi người chuyển đến đó. Khi đến đây, họ tiếp tục hải trình khám phá và vào năm 986 đã thành công trong việc đặt chân tới bờ biển Bắc Canada ngày nay.

Vào khoảng năm 1021, con trai của Erik là Leif đã thành lập một khu định cư ở Newfoundland (Canada) ngày nay. Người Viking phải vật lộn với khí hậu khắc nghiệt, trước khi chiến tranh với người Mỹ bản địa cuối cùng buộc họ trở lại Greenland. Những câu chuyện này từ lâu đã bị bác bỏ vì bị tưởng là truyền thuyết, cho đến năm 1960, khi các nhà khảo cổ đào được di chỉ khu định cư của người Viking ở Newfoundland.

Trong khi người Viking đi về phía Tây, người Inuit đã đi mãi về phía Đông, từ Siberia đến Alaska trên những chiếc thuyền da. Bằng việc săn cá voi và hải cẩu, sống trong túp lều và lều tuyết, họ thích nghi tốt với Bắc Băng Dương lạnh giá, và định cư rải rác tới tận Greenland.

Một điều kỳ lạ là DNA của họ gần giống với người Alaska bản địa nhất, ngụ ý rằng tổ tiên của họ đã di cư đến châu Á từ Alaska, sau đó quay trở lại khám phá châu Mỹ một lần nữa.

Châu Mỹ được phát hiện vào thời gian nào?

Châu Mỹ được phát hiện vào buổi sáng tinh mơ của ngày 12/10/1492. Trên chuyến hành trình khám phá Ấn Ðộ của Colombo bằng đường biển.

Nhà hàng hải Christopher Columbus đã tìm ra châu Mỹ, miền đất chưa ai biết đến. Ông đã đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử, mở đầu cho việc khai Tân thế giới và dẫn tới việc truyền bá nền văn minh tây phương trên lục địa này.

Người Na-Dene, 3000-8000 TCN

Một nhóm khác, Na-Dene, cũng vượt biển Bering đến Alaska khoảng 5.000 tới 10.000 năm trước.

DNA từ xương của họ không liên quan tới những người hiện đại thuộc nhóm Eskimo-Aleut, mà với những người Mỹ bản địa nói ngữ hệ Na-Dene, chẳng hạn như người Navajo, Dene, Tlingit và Apache. Các ngôn ngữ Na-Dene gần nhất với các ngôn ngữ được nói ở Siberia, một lần nữa cho thấy rằng họ đại diện cho một cuộc di cư riêng biệt.

Người Eskimo-Aleut, 2000-2500 TCN

Tổ tiên của người Inuit trước cuộc di cư đến châu Á là các sắc dân Eskimo-Aleut. Một sự thật thú vị là ngôn ngữ của họ rất khác các nhóm dân bản địa châu Mỹ khác và có nét tương đồng với nhóm ngôn ngữ Ural như tiếng Phần Lan hay Hungary.

Cộng với bằng chứng DNA, các nhà sử học tin rằng họ đã vượt biển Bering đến Alaska vào khoảng 4.000-4.500 năm trước, trộn lẫn với nhóm dân Na-Dene - những người "tiền bối" trong các phát kiến châu Mỹ.

Hành trình tìm ra châu Mỹ của Colombo

Sau khi nhận được sự tài trợ của Nữ hoàng Isabella ông đã bắt đầu chuyến đi có một không hai trong lịch sử. Columbus ra khơi vào ngày 3 tháng 8 năm 1492, với ba con tàu Pinta, Nina và Santa Maria cùng 104 người đàn ông.

Mục đích cuộc thám hiểm của Columbus là châu Á, điển hình là Ấn Ðộ và Trung Hoa. Nơi được mệnh danh là có vô số kho vàng, ngọc trai, kim cương và gấm vóc đang tìm người sở hữu. Chuyến thám hiểm của Columbus dài hơn dự tính và sau vài tháng tiếp tục lên đênh trên biển không tìm thấy đất liền.

Thủy thủ đoàn bắt đầu lo ngại và yêu cầu ông phải quay trở lại Tây Ban Nha. Ông đã giao hẹn với thủy thủ đoàn là nếu trong hai ngày không nhìn thấy đất liền, ông sẽ chấp nhận cho thuyền quay về.

Ðúng hai ngày sau vào lúc 2 giờ sáng ngày 12/10/1492, một thủy thủ trên tàu Pinta tên là Rodrigo de Triana đã thấy các chỉ dấu của đất liền. Sau khi nhìn thấy đất liền, Columbus đã đặt tên dãy đất này là San Salvador. Đó chính là vùng Bahamas nổi tiếng ngày hôm nay.

Những thổ dân đầu tiên trên đảo được Columbus gọi là người Indian vì lúc đầu ông lầm tưởng mình đã đến được Ấn Ðộ. Sau đó, hòn đảo lớn hơn mà Christopher Columbus khám phá ra là đảo Cuba và đảo Haiti.

Tháng 3/1493, đoàn thuyền Columbus trở về Tây Ban Nha. Ông được triều đình và nhân dân đón tiếp trọng thể. Columbus được vua phong làm phó vương và toàn quyền các thuộc địa ở Tân Lục Địa.

Sau thành công trong việc tìm ra vùng đất mới lần một, Columbus lại lên đường về phía tây vào ngày 23 tháng 9 năm 1493, với 17 tàu và 1.200 người. Mục đích của cuộc hành trình thứ hai này là thành lập các thuộc địa dưới danh nghĩa Tây Ban Nha. Kiểm tra thủy thủ đoàn tại Navidad và tiếp tục tìm kiếm sự giàu có ở nơi mà Columbus vẫn nghĩ là Viễn Đông.

Vào ngày 3 tháng 11, các thành viên phi hành đoàn đã nhìn thấy đất liền và tìm thấy thêm ba hòn đảo: Dominica, Guadeloupe và Jamaica. Mà Columbus nghĩ là những hòn đảo ngoài khơi Nhật Bản.

Chiếc Santa Maria bị đắm ngoài khơi của hòn đảo được Columbus đặt tên là Hispaniola. Nhằm khẳng định chủ quyền, ông quyết định để 40 người ở lại đảo để thành lập một thuộc địa, rồi quay về Tây Ban Nha với 2 chiếc tàu khác.

Ông được tiếp đón như một vị anh hùng và được phong tước Đô đốc của Đại dương, cai quản các vùng đất ở Ấn Độ. Sau đó, ông lên đường đến Tây Ban Nha vào tháng 3 năm 1496 và đến Cadiz vào ngày 31 tháng 7.

Chuyến đi thứ ba của Columbus bắt đầu vào ngày 30 tháng 5 năm 1498 và đi theo một lộ trình về phía nam hơn hai chuyến trước. Vẫn đang tìm kiếm Trung Quốc, Columbus đã tìm thấy Trinidad và Tobago, Grenada, và Margarita.

Vào ngày 31 tháng 7, ông cũng đến được lục địa Nam Mỹ. Vào ngày 31 tháng 8, ông quay trở lại Hispaniola và tìm thấy thuộc địa Santo Domingo ở đó trong tình trạng lộn xộn.

Khi Columbus đến đảo Esponda, việc tranh giành quyền lực của những tên thực dân Tây Ban Nha vẫn tiếp diễn. Tháng 9/1500, do Columbus và hai người em của ông bác bỏ việc đề cử trên của hoàng gia nên Bobadilla đã ra lệnh bắt giữ cả 3 anh em Columbus về Tây Ban Nha.

Quốc vương và Nữ hoàng nghe được tin này hết sức kinh ngạc. Họ xuống lệnh thả ngay Columbus và cấp cho ông 2.000 đồng tiền bằng bạc, đồng thời còn triệu kiến cả 3 anh em họ. Khi Columbus nhìn thấy nhà vua hết sức xúc động, khóc không thành tiếng do quá cảm kích.

Tháng 10/1501, Columbus chuẩn bị thực hiện một chuyến đi sang châu Mỹ lần thứ tư. Ông mua 4 chiếc thuyền có trọng tải từ 50-60 tấn, chọn 146 đội viên viễn chinh. Người con trai trưởng 21 tuổi của ông được để ở lại hoàng cung làm con tin. Người con trai thứ (lúc đó khoảng 13 tuổi) được phép đi theo ông. Ngày 9/5/1502, đoàn thuyền của Columbus bắt đầu lên đường tại cảng Cadiz.

Ngày 25/5/1502, Columbus từ quần đảo Canary bắt đầu vượt biển Đại Tây Dương. Ngày 15/6, ông phát hiện được đảo Martinique. Đây là một hòn đảo nằm trong quần đảo Antilles nhỏ.

Mấy hôm sau, ông cho đoàn thuyền đi thẳng tới Santo Domingo (nay là Thủ đô nước Cộng hòa Dominica). Tuy nhiên, người thay thế Bobadilla làm Tổng đốc là Nicolas không cho Columbus lên bờ. Ông phải tiếp tục đi về hướng Tây đến cảng Puerto Hermoso để tránh một cơn bão.

Sau khi gặp phải vô số vấn đề, Columbus lên đường đến Tây Ban Nha vào ngày 7 tháng 11 năm 1504. Sau khi đến đó, ông định cư cùng con trai ở Seville.

Hiện nay, Dreams Tree Organization đang có những chương trình Định Cư tại Mỹ theo diện tay nghề và đầu tư, từ đó bạn và gia đình sẽ nhận được quyền lợi Thường Trú Nhân tại Canada. Liên hệ ngay Dreams Tree Organization để được TƯ VẤN MIỄN PHÍ.

VÌ SAO NÊN CHỌN DREAMS TREE ORGANIZATION?

Được hỗ trợ bởi đội ngũ luật sư uy tín có giấy chứng nhận Mara và ICRCC về Luật Di Trú với hơn 18 năm kinh nghiệm

Công việc có sẵn, phù hợp và đúng với chuyên môn, kinh nghiệm

Hỗ trợ và chăm sóc bạn đến khi nhận được PR

DREAMS WITHOUT BORDER - “Giấc Mơ định cư không biên giới”

Liên hệ ngay DTO để được hỗ trợ tư vấn miễn phí:

Hotline: 0975971218 / 0865151812

Địa chỉ: 9-11 Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM

Dù được mệnh danh là "người khám phá ra châu Mỹ", song vai trò của Columbus có phần bị thổi phồng khi ông chỉ là "người đến sau cùng" trong số tất cả các cuộc phát kiến "Tân Thế giới".

Tất cả những người đã tiếp xúc với lịch sử thế giới hẳn không xa lạ gì với cái tên Christopher Columbus. Ông được coi là một trong những nhà hàng hải vĩ đại nhất với công lao "phát hiện ra châu Mỹ" vào năm 1492.

Tuy nhiên, đó chỉ là góc nhìn thuần túy của thế giới quan của thời đại mà Columbus đại diện. Với phần còn lại của nhân loại, châu Mỹ chẳng hề có gì xa lạ. Thậm chí, Columbus còn là người sinh sau đẻ muộn khi phát kiến của ông ít nhất cũng là lần thứ 7 trong lịch sử loài người đến được châu lục xa xôi cách trở này.

Trong khi các sử gia vẫn bàn luận về vai trò thực sự của nhà hàng hải người Ý, tranh cãi về công lao cũng như sự góp sức của ông trong quá trình thuộc địa hóa của "Cựu Thế giới" tại "Tân Thế giới", một điều không thể phủ nhận là phải từ sau thế kỷ 15, nhân loại mới thực sự bắt đầu di cư đến đây một cách có hệ thống.

Hãy cùng đi ngược dòng lịch sử về 7 lần nhân loại "tìm ra châu Mỹ".