Tín chỉ carbon (carbon credit) là một công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và đạt được mục tiêu Net Zero. Việc phát triển thị trường tín chỉ carbon hiệu quả sẽ thúc đẩy đầu tư vào các dự án giảm phát thải, tạo ra lợi ích kinh tế và xã hội, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường xanh cho các thế hệ tương lai.

Phương pháp dựa trên hoạt động

Lượng khí thải KNK = Hệ số phát thải * Mức tiêu thụ/sản lượng

Một nhà máy sử dụng 100 tấn than đá trong một năm. Hệ số phát thải của than đá là 2,49 tấn CO2/tấn than đá. Lượng khí thải CO2 của nhà máy là:

Lượng khí thải CO2 = 2,49 tấn CO2/tấn than đá * 100 tấn than đá = 249 tấn CO2. Để bù đắp cho lượng khí thải này, nhà máy cần mua 249 tín chỉ Carbon.

Phương pháp dựa trên hiệu suất

Lượng khí thải giảm = Lượng khí thải trước dự án - Lượng khí thải sau dự án

Một công ty thực hiện dự án trồng rừng để giảm phát thải KNK. Lượng khí thải trước dự án là 100 tấn CO2/năm. Sau khi thực hiện dự án, lượng khí thải giảm xuống còn 50 tấn CO2/năm. Lượng khí thải giảm được là:

Lượng khí thải giảm = 100 tấn CO2/năm - 50 tấn CO2/năm = 50 tấn CO2/năm

Ngoài hai phương pháp trên, còn có một số phương pháp khác để tính toán tín chỉ Carbon, ví dụ như phương pháp dựa trên diện tích rừng.

Một số công cụ tính lượng khí thải Carbon:

Ở Việt Nam, để có tín chỉ carbon, cần tuân theo các quy định và tiêu chuẩn cả quốc tế và quốc gia liên quan đến phát triển, xác minh, và giao dịch tín chỉ carbon. Dưới đây là các bước cơ bản mà bạn cần thực hiện:

FPT IS – Đồng hành cùng doanh nghiệp đạt mục tiêu Netzero năm 2050

FPT IS chính là chiếc cầu nối giữa các tổ chức và cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam. Chúng tôi cung cấp các dịch vụ và giải pháp thúc đẩy việc triển khai các dự án chuyển đổi xanh, bao gồm áp dụng công nghệ để quản lý dự án và tín chỉ carbon.

Bên cạnh đó, FPT IS luôn xây dựng phương pháp mới để đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu và tham gia vào hoạt động giao dịch tín chỉ carbon. Chúng tôi tiến hành đầu tư nghiên cứu và hợp tác với các chuyên gia, cố vấn hàng đầu trong lĩnh vực giải pháp chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp.

Hiểu rõ nhu cầu của doanh nghiệp, hai giải pháp chiến lược trọng tâm mà FPT IS áp dụng bao gồm: VertZéro – giải pháp kiểm kê khí nhà kính và Báo cáo ESG. Giải pháp hướng tới việc số hóa toàn bộ quy trình thu thập dữ liệu môi trường, tính toán, quản lý, tạo báo cáo kiểm kê khí nhà kính. Hơn nữa còn theo dõi tiến trình thực hiện, cam kết, đảm bảo tuân thủ các quy chuẩn quốc tế.

Tại buổi gặp mặt Đoàn đại biểu Quốc hội của 12 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta lúa chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 (Đề án) do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) Lê Minh Hoan chủ trì mới đây, ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ NNPTNT) nhấn mạnh, nếu Đề án được thực hiện thành công sẽ là một cuộc cách mạng về sản xuất lúa gạo.

Đề án sẽ triển khai nhiều công việc đồng bộ từ hạ tầng, phương thức canh tác, cơ giới hóa… đồng thời, tổ chức lại sản xuất, tăng cường liên kết giữa người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, thương lái để giảm rủi ro về giá cả, thị trường. Theo ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, đây là chương trình sản xuất lúa giảm phát thải quy mô lớn nhất thế giới từ trước đến nay. Nhiều quốc gia đều ngỏ ý quan tâm và muốn lấy Việt Nam làm mô hình học hỏi.

Theo đó, đề án đặt mục tiêu đến năm 2025, 12 tỉnh, thành trong vùng đồng bằng sông Cửu Long trồng 180.000 ha lúa phát thải thấp và thí điểm cấp tín chỉ carbon cho vùng đạt chuẩn. Đến năm 2030, vùng mở rộng thêm 820.000 ha lúa phát thải carbon thấp. Đề án cũng đưa ra mục tiêu giảm 30% chi phí đầu vào, góp phần giảm 20% chi phí sản xuất lúa cho các hộ nông dân, tỷ suất lợi nhuận của người trồng lúa tăng 50%; góp phần giảm 10% lượng khí nhà kính phát thải.

Phân tích rõ hơn, bà Hà Thị Nga - Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Ủy viên Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp chia sẻ, mục tiêu kép của Đề án là giúp người nông dân giảm thiểu lượng khí nhà kính phát thải. Thực hành đúng, bà con có thể có thêm một nguồn thu nữa từ tín chỉ carbon. Điều này không chỉ giúp tăng thu nhập cho nông dân mà còn giúp gạo của Việt Nam có được sự ưu tiên hơn khi xuất khẩu ra các thị trường trên thế giới, giúp nâng tầm lúa gạo của Việt Nam.

Bộ trưởng NNPTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, ngành nông nghiệp cần tranh thủ mọi nguồn lực để nhanh chóng phát huy hiệu quả Đề án tại từng địa phương.

Đồng thời đẩy mạnh hợp tác, liên kết, chuẩn hóa tất cả quy trình canh tác lúa; qua đó, doanh nghiệp, người nông dân cần tuân thủ đúng quy trình để ngành trồng lúa hướng đến giảm chi phí, giảm phát thải carbon, tăng lợi nhuận.

Thực tế cho thấy, trồng lúa giảm phát thải, bán được tín chỉ carbon là hướng đi đúng đắn của ngành nông nghiệp; góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất thông minh, thích ứng biến đổi khí hậu, giảm tác động đến môi trường; giúp sản xuất bền vững và nâng cao vị thế của gạo Việt Nam trên thị trường trong thời gian tới.

Trao đổi tín chỉ carbon từ các mô hình sản xuất lúa phát thải thấp

Về việc khai thác tín chỉ carbon từ Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta lúa chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, nhóm nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế Quốc dân đề xuất, Việt Nam cần có cơ chế trao đổi tín chỉ carbon và hình thành thị trường tín chỉ carbon cho các mô hình sản xuất lúa phát thải thấp. Doanh thu từ việc trao đổi tín chỉ carbon có thể dùng để tái dầu tư vào mô hình sản xuất và tạo động lực cho người nông dân.

Theo nhóm nghiên cứu, thị trường carbon với quy mô rộng lớn, phức tạp thường sẽ mang lại nhiều hiệu quả hơn nhưng đồng thời đòi hỏi sự chuẩn bị và cơ sở pháp lý, kỹ thuật chi tiết, chặt chẽ. Để triển khai thị trường carbon, cần có một hệ thống thuế, phí và mua bán hạn ngạch. Việc này đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian dài. Vì vậy, ở giai đoạn ban đầu, nhóm nghiên cứu khuyến nghị, Việt Nam có thể áp dụng bài học từ Thái Lan khi thiết lập các cơ chế trao đổi tín chỉ carbon tự nguyện cho ngành lúa gạo, trước khi triển khai thị trường carbon bắt buộc.

Nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, thị trường carbon và các cơ chế bù trừ tín chỉ carbon là lĩnh vực rất mới, đặc biệt đối với ngành nông nghiệp nói chung và trồng lúa nói riêng. Vì vậy, nâng cao nhận thức của người nông dân về lợi ích của việc tham gia vào các chương trình này. Chưa hết, nhóm nghiên cứu cũng chỉ ra, cơ quan chức năng cần cung cấp những khóa đào tạo, tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm cho doanh nghiệp và người nông dân về tín chỉ carbon cũng như cách thức vận hành của các cơ chế bù trừ, trao đổi carbon. Bên cạnh đó, cần triển khai các hệ thống đo lường, giám sát, cơ sở hạ tầng kỹ thuật để người dân thuận tiện trong việc tiếp cận tín chỉ carbon.

Trong khi đó, TS Trần Đại Nghĩa, Trưởng ban Kinh tế tài chính và tài nguyên môi trường, Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NNPTNT) đưa ra một số khuyến nghị để ngành lúa gạo có thể bán được tín chỉ carbon trong thời gian tới. Cụ thể, cần hoàn thiện khung pháp lý cho vận hành thị trường carbon nội địa và quốc tế. Xây dựng hệ thống đăng ký tài khoản phát thải, giảm phát thải quốc gia và quốc tế, trong đó ưu tiên thử nghiệm cho lĩnh vực lâm nghiệp. Đặc biệt, cần ưu tiên các dự án tạo tín chỉ carbon.

Hiện tại, Việt Nam đang lên kế hoạch tập trung xây dựng các hệ thống pháp lý để quản lý tín chỉ, trao đổi và vận hành thử nghiệm trên sàn giao dịch carbon trong giai đoạn từ nay đến năm 2027. Từ năm 2028 trở đi, Việt Nam sẽ tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, đối với mô hình trồng lúa carbon thấp, cần phải đưa ra một lộ trình cụ thể tương ứng với thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước.

Trồng lúa có phát thải cao nhất trong nông nghiệp, tức là lĩnh vực này có nhiều dư địa để tiết giảm và bán tín chỉ carbon, nhưng để thành hiện thực cần nhiều nỗ lực.

Canh tác lúa chiếm 6-8% lượng khí thải của hệ thống lương thực toàn cầu, trong khi chăn nuôi đóng góp 40-50%. Tuy nhiên, tại Đông Nam Á, lượng khí thải từ lúa cao hơn chăn nuôi hoặc các loại cây trồng khác. Theo ông Quốc Cường, chuyên gia Nhóm nghiên cứu biến đổi khí hậu của Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI), nguyên nhân là do phương pháp canh tác truyền thống lúa tại đây tạo ra lượng khí metan đáng kể.

"Khi ruộng lúa được ngập nước, nó tạo điều kiện cho quá trình phân hủy kỵ khí diễn ra, giải phóng khí metan và các loại khí nhà kính khác", ông Cường lý giải tại tọa đàm mới đây do Đại học Nông Lâm TP HCM tổ chức. Ước tính, mỗi ha lúa nước phát thải khoảng 12,7 tấn CO2 tương đương mỗi năm.

Tại Đông Nam Á, Việt Nam cùng với Indonesia là hai nước có tiềm năng lớn nhất để giảm phát thải ở lúa, cao hơn Thái Lan và Myanamar. Nếu ứng dụng các quy trình kỹ thuật canh tác phát thải thấp thì có thể giảm 40-65%, theo ông Cường. Nghiên cứu của Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) năm 2021 cũng chỉ ra tiềm năng giảm phát thải lúa gạo là 36%, vượt trội đáng kể so với chăn nuôi (9%) và các loại cây trồng khác (3%).

Đơn vị: tấn CO2tđ mỗi năm. Nguồn: IRRI

Việt Nam đang có Đề án phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long đến 2030, là cơ hội khai thác tiềm năng này. Về lý thuyết, trồng lúa phát thải thấp mở cánh cửa tham gia thị trường tín chỉ carbon tự nguyện trong tương lai.

Tín chỉ carbon (carbon credit) là chứng nhận quyền phát thải khí CO2 hoặc khí nhà kính khác được quy đổi tương đương sang CO2 (CO2tđ). Một tấn CO2tđ được xem là 1 tín chỉ carbon. CO2tđ là đơn vị mua bán trên thị trường carbon, tín chỉ carbon. Trong đó, bên bán là bên có khả năng giảm hoặc loại bỏ phát thải được công nhận.

Ví dụ, dự án trồng lúa giảm được bao nhiêu CO2tđ được công nhận tín chỉ, sẽ bán cho khách hàng. Ước tính, với một triệu ha lúa chất lượng cao, giá trị tín chỉ carbon có thể đạt tới 100 triệu USD mỗi năm nếu được bán với giá 10 USD mỗi tín chỉ. "Tiềm năng giảm phát thải trong lĩnh vực nông nghiệp mang lại nhiều cơ hội cho tài chính khí hậu", ông Cường nhận định.

Tuy nhiên, hiện thực hóa quy trình giảm phát thải, công nhận tín chỉ carbon và bán được là chặng đường dài. Việc này đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, hợp tác đồng bộ, theo chuyên gia.

Thứ nhất, là khâu thực thành. Phát thải trong trồng lúa được giảm ở các khâu làm đất, chọn giống lúa, phương pháp canh tác và xử lý rơm rạ sau thu hoạch. Trong đó, canh tác ghi nhận giảm phát thải lớn nhất, tới 33%, nếu dùng phương pháp tưới ngập khô xen kẽ (AWD) và phân bón hiệu quả.

Triển vọng giảm phát thải trong các khâu canh tác lúa bền vững so với thông thường. Nguồn: IRRI

Ở Việt Nam, hai phương pháp trồng lúa có thể áp dụng AWD là 1P5G (1 phải 5 giảm) và SRP (thực hành canh tác lúa bền vững). Hiện canh tác theo phương pháp tưới ngập khô xen kẽ đã chứng minh hiệu quả giảm phát thải và kinh tế đi kèm, nhưng ở quy mô nhỏ.

Ví dụ, thí điểm cách canh tác này ở xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh (Cần Thơ), nông dân trồng lúa có lãi tăng 1,3-6,2 triệu đồng mỗi ha so với canh tác truyền thống. Phát thải CO2 cũng giảm 2-6 tấn mỗi ha.

Tiếp đến, nông dân phải từ bỏ tập quán đốt rơm để giảm 15% phát thải, nhưng đây cũng là thách thức không nhỏ. Tại một diễn đàn cuối tháng trước, ông Ngô Xuân Chinh, Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, IASVN) ước tính chỉ 10% lượng rơm rạ ở Việt Nam được thu gom tái chế.

Thứ hai, khâu giám sát, xác minh và công nhận tín chỉ carbon vẫn còn sơ khai. Đến nay, thị trường carbon ngành lúa gạo có thể tuân theo các tiêu chuẩn như CDM, Gold Standard, T-VER và Điều 6 của Thỏa thuận Paris. Tùy theo mục đích và quy mô thị trường tài chính khí hậu mà dự án hướng đến, quy trình giám sát, báo cáo, xác minh (MRV), kiểm kê và định giá sẽ có điều chỉnh.

Tuy nhiên, nút thắt ở chỗ, hiện không có quốc gia hoặc sáng kiến nào thu thập dữ liệu về các hoạt động quản lý đồng ruộng liên quan đến khí thải ở quy mô lớn hoặc thường xuyên. Mỗi đợt kiểm kê khí nhà kính quốc gia đều dựa trên dữ liệu mẫu nhỏ và các giả định về thực hành của nông dân, theo IRRI.

Nông dân xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ thu hoạch lúa vụ Đông Xuân đầu tháng 3/2020. Ảnh: Thanh Trần

Thứ ba, trước khi chờ điều kiện chính sách và kỹ thuật cho thị trường tín chỉ carbon lúa thành hình, thách thức bao trùm cho những nỗ lực giảm phát thải là điều kiện kinh tế - xã hội và hạ tầng - kỹ thuật ở miền Tây chưa cao, đòi hỏi nhiều cải thiện.

Theo báo cáo của nhóm chuyên gia Tổ chức nghiên cứu nông nghiệp quốc tế CGIAR (Mỹ) tại 13 tỉnh, thành khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, tất cả địa phương cho biết đều thiếu vốn, gặp khó khăn về thực hiện chính sách giảm phát thải. Trong đó, 12 địa phương gặp khó về logistics, xuất khẩu; 11 tỉnh nói thời tiết, thiên tai phức tạp và 10 địa phương nêu thiếu hạ tầng chính sách, giao thông.

Theo TS Phạm Thu Thủy - thành viên nhóm nghiên cứu CGIAR, hiện công tác tại Đại học Adelaide (Australia), để giảm phát thải hệ thống lương thực thực phẩm nói chung cần cải thiện một loạt vấn đề. Chẳng hạn, chính sách (cơ chế liên kết vùng, quy hoạch đất đai, tài khóa) cần thay đổi, ngành lương thực tổ chức lại theo hướng thông minh, bền vững song song với đầu tư hạ tầng nông nghiệp.

Trong một loạt những việc cần phải làm, PGS. TS Kha Chấn Tuyền, Phó trưởng khoa Công nghệ hóa học và Thực phẩm (Đại học Nông Lâm TP HCM) khuyến nghị quy hoạch sản xuất nông nghiệp cần đi theo một hệ thống khép kín và tinh gọn, tăng cơ giới hóa và ứng dụng kỹ thuật số. "Chuỗi cung ứng nên càng ngắn càng tốt, tận dụng phụ phẩm", ông nói.

Việt Nam có những thuận lợi để cải thiện các điểm hạn chế này khi sở hữu khung pháp lý đầy đủ, theo CGIAR. Ngoài ra, nông nghiệp được xác định là một phần trong triển khai Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) về giảm phát thải khí nhà kính. Vì vậy, giới phân tích cho rằng điều quan trọng là phối hợp thực thi.

"Cần có hành động kịp thời nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ quản lý và cộng đồng, nhất là những đối tượng trực tiếp tham gia quá trình sản xuất, quản lý sản xuất", chuyên gia từ CGIAR khuyến nghị.

Kinh tế lâm nghiệp phát triển sẽ khuyến khích người dân trồng rừng tái sinh - Ảnh:VGP/Đỗ Hương

Thị trường carbon được bắt nguồn từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, thông qua vào năm 1997. Theo đó, các quốc gia có dư thừa quyền phát thải được bán cho hoặc mua từ các quốc gia phát thải nhiều hơn hoặc ít hơn mục tiêu cam kết.

Từ đó, trên thế giới xuất hiện loại hàng hóa mới là các chứng chỉ giảm/hấp thụ phát thải khí nhà kính. Do carbon (CO2) là khí nhà kính quy đổi tương đương của mọi khí nhà kính nên các giao dịch được gọi chung là mua bán, trao đổi carbon, hình thành nên thị trường carbon hay thị trường tín chỉ carbon.

Ngày 7/1/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon. Nghị định này có quy định cụ thể về lộ trình phát triển, thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước.

Trong đó, giai đoạn đến hết năm 2027 sẽ xây dựng quy định quản lý tín chỉ carbon, hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon; triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; thành lập và tổ chức vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ carbon kể từ năm 2025; triển khai các hoạt động tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức về phát triển thị trường carbon.

Giai đoạn từ năm 2028 sẽ tổ chức vận hành sàn giao dịch tín chỉ carbon chính thức trong năm 2028; quy định các hoạt động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới.

Để từng bước hiện thực hóa chiến lược này, tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Bộ NN&PTNT và Tổ chức Emergent đã ký Ý định thư thiết lập hợp tác giữa Việt Nam với Liên minh giảm phát thải và tăng cường tài chính lâm nghiệp (LEAF).

Ngày 22/10/2020, thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) đã được ký kết giữa Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đối với 6 tỉnh Bắc Trung Bộ, giai đoạn 2018-2024. Theo ERPA, Việt Nam chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới với tổng giá trị là 51,5 triệu USD, tương đương 1.200 tỷ đồng.

Theo đó, hai bên đồng ý đàm phán, ký kết và thực hiện Thỏa thuận mua bán giảm phát thải từ rừng vùng Tây nguyên và Nam Trung bộ (ERPA). Dự kiến, Việt Nam sẽ chuyển nhượng cho LEAF/Emergent 5,15 triệu tấn CO2 giảm phát thải từ rừng tại vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ giai đoạn 2022-2026 với giá tối thiểu là 10 USD/1 tấn CO2. Diện tích rừng tham gia chương trình dự kiến 4,26 triệu ha, gồm 3,24 triệu ha rừng tự nhiên và 1,02 triệu ha rừng trồng.

Ngày 31/10/2021, Ý định thư về mua bán giảm phát thải được ký kết giữa Bộ NN&PTNT và Tổ chức tăng cường tài chính lâm nghiệp (Emergent) cho 11 tỉnh vùng Tây Nguyên và Nam Trung bộ. Theo đó, Việt Nam sẽ chuyển nhượng cho Emergent - cơ quan hành chính của Liên minh giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính lâm nghiệp (LEAF) 5,15 triệu tấn CO2 với giá tối thiểu là 10 USD/tấn (tương đương 51,5 triệu USD) cho giai đoạn 2022-2026.

Ông Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết việc chuyển nhượng, thương mại tín chỉ carbon rừng sẽ huy động bổ sung nguồn tài chính để tái đầu tư vào rừng; tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện sinh kế cho các chủ rừng, người dân nông thôn; bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường.

Đến nay, ước tính có khoảng 25 triệu người, với trên 12 triệu là đồng bào dân tộc thiểu số đang sống gần rừng hàng ngày thực hiện hoạt động hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ rừng. Ngoài ra, hoạt động lâm nghiệp còn được thực hiện tại các khu công nghiệp chế biến lâm sản, các làng nghề sử dụng các nguyên liệu từ rừng để chế biến lâm sản. Những kết quả này cho thấy ngành Lâm nghiệp không những có đóng góp vào GDP (tổng sản phẩm trong nước) hay GVA (tổng giá trị gia tăng) mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp đầu vào cho các ngành kinh tế khác phát triển.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị cho biết, trong thời gian tới, ngành Lâm nghiệp tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chương trình phát triển Lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2021-2025 và các chương trình, đề án trọng điểm để xây dựng ngành Lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù.

Cùng với đó, ngành sẽ thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững đất, rừng được quy hoạch cho lâm nghiệp; sự tham gia rộng rãi, bình đẳng của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội vào các hoạt động lâm nghiệp, huy động tối đa các nguồn lực xã hội.

Ngành lâm nghiệp cũng hướng tới việc ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại; phát huy tối đa các tiềm năng, vai trò và tác dụng của rừng, phát triển bền vững ngành lâm nghiệp; đóng góp ngày càng tăng vào quá trình phát triển KT-XH, bảo vệ môi trường sinh thái, an ninh nguồn nước, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó chủ động và hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, công tác bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học, cung cấp đa dạng các dịch vụ hệ sinh thái rừng cũng sẽ góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế cho người dân nông thôn miền núi, dân tộc thiểu số, giữ vững quốc phòng, an ninh và thực hiện thành công các mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững.