[1]Tại một số quốc gia ở Mỹ và châu Âu, tiến sĩ là một học vị do trường đại học cấp cho nghiên cứu sinh sau đại học, công nhận luận án nghiên cứu của họ đã đáp ứng tiêu chuẩn bậc tiến sĩ, là hoàn toàn mới chưa từng có ai làm qua.[cần dẫn nguồn] Thời gian để hoàn thành luận án tiến sĩ có thể từ 3 đến 5 năm hay dài hơn, tùy thuộc vào tình hình hay điều kiện khác nhau của từng nghiên cứu sinh, có thể làm bán thời hay toàn thời. Có trường hợp nghiên cứu sinh không thể hoàn thành luận án của mình vì lý do nào đó và xin rút lui.

Trang trong thể loại “Đại học Harvard”

Thể loại này chứa 14 trang sau, trên tổng số 14 trang.

Bùi Phương Linh, 33 tuổi, và Phạm Thanh Tùng, 32 tuổi, tốt nghiệp tiến sĩ cùng ngày ở trường Y tế công cộng T.H.Chan, thuộc Đại học Harvard.

Linh nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành Dịch tễ học Dinh dưỡng, cùng hai bằng thạc sĩ Thống kê y sinh và Dịch tễ học, hôm 22/5. Trước đó một tháng, cô bảo vệ thành công luận án về thang điểm đo lường chế độ dinh dưỡng, vừa đảm bảo sức khỏe con người, vừa ít gây hại cho môi trường.

Ngày tốt nghiệp, Tùng cũng nhận cùng lúc bằng tiến sĩ chuyên ngành Dịch tễ học và phòng chống ung thư, thạc sĩ Thống kê Y sinh. Luận án của anh viết về ảnh hưởng của các yếu tố di truyền và lối sống đến nguy cơ ung thư đại trực tràng.

Linh, Tùng bên con trong ngày tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Harvard. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Năm 2009, Linh và Tùng gặp nhau lần đầu, khi theo học Y khoa ở Đại học Y Hà Nội. Học chung nhiều lớp lý thuyết, cùng tham gia một số dự án nghiên cứu khoa học, cặp đôi ngày càng gắn bó.

Đầu năm thứ tư đại học, họ đi trao đổi ở Học viện Karolinska, Thụy Điển. Đây là một trong những trường y khoa lớn nhất châu Âu, cũng là nơi xét và trao giải Nobel Sinh lý học và Y học. Tùng nhớ mãi buổi hội thảo về sàng lọc và dự phòng ung thư cổ tử cung. Nhìn các bạn sôi nổi bàn luận về hệ thống dự phòng ung thư của nước mình, cả hai thấy lạ lẫm, ngồi im lắng nghe vì Việt Nam chưa có hệ thống nào như vậy. Họ nhận ra tầm quan trọng của dự phòng bệnh.

"Đây có thể coi là bước ngoặt định hình chặng đường học tập tiếp theo", Linh và Tùng cho hay.

Về Việt Nam, đi lâm sàng, Tùng quan sát thấy 70-80% bệnh nhân đến khám mắc ung thư giai đoạn cuối. Vì thế, bác sĩ cũng không giúp được nhiều cho họ. Đến đây, anh quyết định theo đuổi nghiên cứu y tế công cộng, tập trung vào dự phòng ung thư.

Phương Linh cũng chuyển từ định hướng lâm sàng sang nghiên cứu. Cô đặt mục tiêu đến môi trường học thuật hàng đầu thế giới với mong muốn góp phần cải thiện chất lượng đào tạo y khoa ở Việt Nam.

Cả hai bắt tay chuẩn bị hồ sơ để kịp ứng tuyển vào năm cuối đại học. Cùng chọn du học ngành y tế công cộng và nhắm vào các trường top 100, Linh và Tùng thường trao đổi, góp ý và sửa hồ sơ cho nhau. Năm 2016, cặp đôi cùng nhau học Thạc sĩ ở trường Y tế công cộng Bloomberg, theo diện học bổng toàn phần của Quỹ giáo dục Việt Nam (VEF) và Đại học Johns Hopkins. Linh tập trung vào Dịch tễ học và Dinh dưỡng, còn Tùng chọn Dịch tễ học và Ung thư.

Trong một năm ở đây, Linh và Tùng càng hiểu khó khăn của sinh viên Y trong nước, đặc biệt về nghiên cứu khoa học. Tốt nghiệp, năm 2018, họ mở dự án Research Advancement Consortium in Health (REACH), hướng đến nâng cao kiến thức và kỹ năng nghiên cứu cho cộng đồng y khoa Việt Nam. Dự án do Đại sứ quán và Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ.

Từ đó đến nay, cả hai tự điều hành REACH, xây dựng nền tảng học trực tuyến, tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ các nghiên cứu hoặc dự án can thiệp, nâng cao sức khỏe cộng đồng của giới trẻ Việt.

"Chúng tôi mong giúp các bạn có thêm kinh nghiệm, làm dày hồ sơ xin học bổng du học và tạo ra những thay đổi tích cực sau khi về nước", Tùng nói. Nhiều người đã có bài báo đăng tạp chí quốc tế uy tín, báo cáo và nhận giải thưởng ở hội nghị y khoa trong và ngoài nước, hay tổ chức các khóa huấn luyện học sinh kỹ năng sơ cấp cứu.

Linh và Tùng tổ chức hội thảo ở dự án REACH. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Trở lại Mỹ năm 2019, Linh và Tùng học tiến sĩ ở trường Y tế công cộng T.H.Chan, Đại học Harvard. Ở khoa Dinh dưỡng, Linh nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của giáo sư Walter C. Willett, nhà khoa học y học được trích dẫn nhiều nhất thế giới năm 2023 với hơn 2.000 nghiên cứu đã xuất bản. Nhiệm vụ của cô là xây dựng thang điểm chi tiết cho từng nhóm thực phẩm, đánh giá mức độ lành mạnh của chế độ ăn lên sức khỏe con người và môi trường, theo cơ sở dữ liệu về sức khỏe người Mỹ. Linh mong xây dựng thang điểm tương tự ở Việt Nam để xây dựng chế độ ăn tốt cho người Việt.

Trong lúc đó, Tùng nghiên cứu dịch tễ học ung thư đại trực tràng, ở khoa Dịch tễ học. Ở một số đại học Mỹ, nghiên cứu sinh tiến sĩ có thể học miễn phí một số lớp ở ngành khác để được cấp bằng thạc sĩ, gọi là master’s in passing. Vợ chồng anh đều học thêm bằng thạc sĩ Thống kê y sinh, coi đây là công cụ để cập nhật kiến thức, phát triển phương pháp nghiên cứu.

Ngoài ra, cặp đôi tích cực tham gia giảng dạy. Tùng trợ giảng hai lớp là Đại cương về dịch tễ học và Suy luận nhân quả trong dịch tễ học. Anh cũng là trợ lý phát triển chương trình thạc sĩ của trường Y tế công cộng Harvard, trong hai năm. Tác phong đúng giờ, luôn giải đáp thắc mắc của sinh viên một cách dễ hiểu, anh được tin tưởng. Hai năm liền (2023, 2024), Tùng là "Trợ giảng xuất sắc" và "Trợ giảng của năm" ở khoa Dịch tễ học.

Trương Nguyễn Xuân Quỳnh, giảng viên Viện Khoa học Sức khỏe, Đại học VinUni, là người bạn thân thiết, theo sát hành trình làm tiến sĩ của Linh và Tùng. Cô tự hào, nể phục đôi bạn khi vừa nghiên cứu, vừa trợ giảng các môn khó ở Harvard, lại nhiệt tình hướng dẫn sinh viên.

"Mình quý cách hai bạn đồng hành, động viên, hỗ trợ nhau trong học tập và công việc để cùng đi tới mục tiêu", cô nói. "Cả hai khiêm tốn, cầu thị, tử tế và chân thành".

Nhìn lại, Tùng và Linh cho rằng có nhiều thời điểm khó khăn, nhất là khi Linh sinh con. Cô gặp một số biến chứng, tạm gác lại công việc để nghỉ thai sản. Không tránh khỏi những lúc cả hai mệt mỏi, cãi vã, nhưng họ luôn thống nhất được cách giải quyết, chia sẻ và hỗ trợ nhau.

"Vợ chồng mình đã làm tốt nhất trong khả năng của mỗi người", Linh nói. "Với mình, lần đầu làm mẹ, mình hiểu rằng đây là khóa đào tạo siêu nhân".

Cặp đôi trở về Việt Nam ngay sau lễ tốt nghiệp. Linh làm việc tiếp với nhóm nghiên cứu ở Harvard, Tùng giảng dạy bộ môn Sinh lý học ở Đại học Y Hà Nội, bên cạnh thỉnh giảng ở Đại học VinUni và điều hành dự án REACH.

Vị trí tỉnh Cao Bằng trên bản đồ Việt Nam

Cao Bằng là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam.[8][9][10]

Tỉnh Cao Bằng nằm ở phía đông bắc Việt Nam, có vị trí địa lý:

Trung tâm hành chính của tỉnh là Thành phố Cao Bằng, cách Hà Nội 279 km. Chiều dài của tỉnh theo chiều bắc - nam là 80 km, từ 23°7'12"B đến 22°21'21"B (tính từ xã Trọng Con huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh huyện Bảo Lâm). Chiều rộng theo chiều đông - tây là 170 km, từ 105°16'15"Đ - 106°50'25"Đ (tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc huyện Hạ Lang), trung tâm địa lý của tỉnh nằm ở xã Trương Lương, huyện Hòa An.

Tỉnh Cao Bằng có diện tích đất tự nhiên 6.690,72 km², là cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m, vùng sát biên có độ cao từ 600–1.300 m so với mặt nước biển. Núi non trùng điệp. Rừng núi chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh. Từ đó hình thành nên 3 vùng rõ rệt: Miền đông có nhiều núi đá, miền tây núi đất xen núi đá, miền tây nam phần lớn là núi đất có nhiều rừng rậm.

Trên địa bàn tỉnh có hai dòng sông lớn là sông Gâm ở phía tây và sông Bằng Giang ở vùng trung tâm và phía đông, ngoài ra còn có một số sông ngòi khác như sông Quây Sơn, sông Bắc Vọng, sông Nho Quế, sông Năng, sông Neo hay sông Hiến.

Đa số diện tích Cao Bằng được che phủ bởi rừng vì thế không khí khá trong sạch ở các vùng nông thôn, các khu dân cư và ở trung tâm thành phố. Các tuyến đường chính của Cao Bằng có mức độ ô nhiễm bụi không cao, do phương tiện giao thông ít, mật độ dân số thấp. Nguồn nước sông đang bị ô nhiễm do ý thức vứt rác bữa bãi của một số người dân cùng với ngành khai thác cát đã làm cho các dòng sông ở đây bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị ảnh hưởng. Các phương tiện giao thông trong tỉnh chủ yếu là xe máy, phương tiện ít làm cho mức tiêu thụ nhiên liệu không cao, Cao Bằng không bị ô nhiễm bởi các khí thải nhà kính và nhiều khí độc khác. Bởi vậy, so với các địa phương khác của Việt Nam, Cao Bằng là một trong những tỉnh có khí hậu trong lành và ít ô nhiễm nhất.

Nhìn chung Cao Bằng có khí hậu ôn hòa dễ chịu. Với khí hậu cận nhiệt đới ẩm, địa hình đón gió nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các đợt không khí lạnh từ phương bắc. Tuy nhiên nhiệt độ của Cao Bằng chưa bao giờ xuống thấp quá 0 °C, hầu như vào mùa đông trên địa bàn toàn tỉnh không có băng tuyết (trừ một số vùng núi cao có băng đá xuất hiện vào mùa đông).

Mùa hè ở đây có đặc điểm nóng ẩm, nhiệt độ cao trung bình từ 30 - 32 °C và thấp trung bình từ 23 - 25 °C, nhiệt độ không lên đến 39 - 40 °C. Vào mùa đông, do địa hình Cao Bằng đón gió nên nó có kiểu khí hậu gần giống với ôn đới, nhiệt độ trung bình thấp từ 5 - 8 °C và trung bình cao từ 15 - 28 °C, đỉnh điểm vào những tháng 12, 1 và 2 nhiệt độ có thể xuống thấp hơn khoảng từ 6 - 8 °C, độ ẩm thấp, trời hanh khô vào đầu mùa. Mùa xuân và mùa thu không rõ rệt, thời tiết thất thường; mùa xuân thường có tiết trời nồm, mùa thu mát, dễ chịu.

Dân số toàn tỉnh là 530.341 người (theo điều tra dân số ngày 01/04/2019 của Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng) [11]. Thành thị: 123.407 người. Nông thôn: 406.934 người. Tỷ lệ đô thị hóa (2022): 23,2%

Các dân tộc ở Cao Bằng gồm Tày: 216.577 người (chiếm 40,84% dân số), Nùng: 158.114 người (29,81 %), Mông: 61.579 người (11,65 %), Dao: 54.947 người (10,36 %), Kinh: 27.170 người (5,12 %), Sán Chay: 7.908 người (1,49%), Lô Lô: 2.861 người (0,54%), các dân tộc khác: 1005 người (0.19%).

Vùng đất tỉnh Cao Bằng bắt đầu thuộc lãnh thổ Việt Nam vào năm 1039, khi Lý Thái Tông đánh thủ lĩnh châu Thảng Do và châu Quảng Nguyên ( nay là huyện Quảng Hòa) là Nùng Tồn Phúc.

Năm 1041 vợ A Nùng và con trai của Tồn Phúc là Nùng Trí Cao từ động Lôi Hỏa (Hạ Lôi, nay là khoảng hương Hạ Lôi huyện Đại Tân địa cấp thị Sùng Tả tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, phía đông bắc huyện Trùng Khánh) về chiếm lại 2 châu trên, nhà Lý cử quân lên đánh bắt được Trí Cao nhưng không giết mà cho làm quan nhà Lý cai quản các châu động trên. Nhà Lý gộp thêm các động Vật Dương, động Lôi Hỏa, động Bình An, động Bà Tư (là các động vốn trong số 10 động thuộc quyền cai quản của Tồn Phúc), cùng châu Thảng Do vào đất Quảng Nguyên và gọi chung là châu Quảng Nguyên. Ngoài châu Quảng Nguyên, thì năm 1041, châu Tư Lang (nay là đất 2 huyện Trùng Khánh và Hạ Lang tỉnh Cao Bằng) nằm ở phía đông bắc châu Quảng Nguyên, nhà Lý cũng phụ vào đất cai quản của Trí Cao, coi như đất Đại Cồ Việt vùng Trí Cao cai quản mà sau đó nhà Lý đòi chủ quyền với nhà Tống gồm 2 châu Tư Lang và Quảng Nguyên (gộp cả Bình An (nay thuộc Cao Bằng), Bà Tư (nay thuộc Cao Bằng), Thảng Do, Lôi Hỏa (phía đông nam Vật Dương), Vật Dương (phía đông Vật Ác), Vật Ác (vùng phía nam trấn An Đức của Tĩnh Tây Quảng Tây ngày nay)). Tuy bề ngoài thần phục nhà Lý, nhưng bên trong Nùng Trí Cao nuôi chí tự cường lập quốc gia độc lập. Năm 1048 Trí Cao lại nổi dậy đánh chiếm động Vật Ác (vùng phía nam An Đức trấn của Tĩnh Tây Trung Quốc ngày nay), vốn thuộc nhà Lý từ năm 1039, nhà Lý đem quân lên đánh. Sau khi gây sự với nhà Lý không thành, Trí Cao đánh chiếm châu An Đức (Ande Zhou 安德州, nay là khoảng địa bàn trấn An Đức của thành phố cấp huyện Tĩnh Tây) và vùng biên giới các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc. Nhà Tống tiêu diệt quốc gia của Trí Cao năm 1055. Các thủ lĩnh địa phương cai quản châu động kế thừa Trí Cao, không thực sự thần phục nhà Lý, đem một số động thuộc châu Quảng Nguyên (là phần đất phía bắc Cao Bằng ngày nay thuộc thành phố cấp huyện Tĩnh Tây Trung Quốc) sang thần phục nhà Tốngː Nùng Tông Đán (Tông Đản) năm 1049 đem động Vật Ác (sau thuộc Tống bị nhà Tống đổi thành Thuận An châu, nay là các hương trấn biên giới thuộc thành phố cấp huyện Tĩnh Tây địa cấp thị Bách Sắc khu Tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây, nằm ở phía tây nam thành phố Tĩnh Tây tiếp giáp các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng, có thể là vùngː hương Nam Pha, hương Thôn Bàn, hương An Ninh, trấn Long Bang (An Bang),...), Nùng Trí Hội năm 1062 đem động Vật Dương sang Tống (nhà Tống đổi tên thành Quy Hóa châu, nay là các hương trấn phía đông nam thành phố cấp huyện Tĩnh Tây, tiếp giáp huyện Trùng Khánh Cao Bằng, có lẽ làː hương Nhâm Trang (Nhâm Động), trấn Nhạc Vũ, trấn Hồ Nhuận (Nhuận Động), trấn Hóa Động,... Kèm theo đất Vật Dương nhập Tống đợt này, có thể có cả đất động Lôi Hỏa (Hạ Lôi),...). Đến Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077, châu Quảng Nguyên (bao gồm các vùng đất ngày nay là các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh (H.Trùng Khánh), Quảng Uyên, Hòa An, thành phố Cao Bằng, Phục Hòa), châu Tư Lang (nay là Trùng Khánh, Hạ Lang), cùng các châu nay thuộc Lạng Sơn làː Thất Nguyên (Thất Khê, Tràng Định), Môn (Cao Lộc), Tô Mậu (Đình Lập), bị Quách Quỳ tướng nhà Tống chiếm đóng không trả lại Đại Việt sau chiến tranh (Giai đoạn này châu Quảng Nguyên bị nhà Tống đổi tên thành Thuận châu).

Bằng chiến thuật vừa gây xung đột biên giới (lùng bắt Nùng Trí Hội), vừa ngoại giao triều cống và đàm phán, từ năm 1077 đến năm 1088, vua quan nhà Lý thời Lý Nhân Tông dần thu phục lại gần như hoàn toàn các vùng đất bị nhà Tống chiếm từ nhà Lý trước đó và trong cuộc chiến Tống - Việt. Kết quả đàm phán của phái đoàn Đào Tông Nguyên sứ thần nhà Lý năm 1079, thu lại được toàn bộ các châu nay là đất Lạng Sơn (là châu Tô Mậu, châu Môn và châu Thất Nguyên), đất nay thuộc Cao Bằng thì thu lại được châu Tư Lang, và phần lớn châu Quảng Nguyên (Thuận châu nhà Tống, phần đất nhà Tống chiếm trong cuộc chiến 1076-1077), trừ phân đất Vật Ác (châu Thuận An nhà Tống), Vật Dương (châu Quy Hóa nhà Tống), Lôi Hỏa mất về nhà Tống trước chiến tranh thì nhà Tống không trả.

Năm 1084, phái đoàn Lê Văn Thịnh sứ thần nhà Lý, tiếp tục sang Bằng Tường Quảng Tây Trung Quốc đàm phán đòi lại đất hai động Vật Dương và Vật Ác từ nhà Tống. Nhưng thay vì trả đất hai động Vật Dương và Vật Ác của châu Quảng Nguyên, thì nhà Tống đổi lại trả cho nhà Lý vùng đất 6 huyệnː Bảo Lạc, Luyện, Miêu (Pác Miêu), Đinh, Phóng, Cận (là đất nay thuộc các huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm tỉnh Cao Bằng) cùng 2 động Túc (Tĩnh Túc), Tang (nay là khoảng vùng đất huyện Nguyên Bình Cao Bằng). Các huyện động này vốn là các châu động ki mi nằm kẹp giữa hai nước Lý, Tống, nằm ở phía tây châu Quảng Nguyên, ở phía đông châu Bình Nguyên (Vị Xuyên, Hà Giang). Tuy nhiên, nhà Lý vẫn kiên trì tiếp tục đàm phán đòi đất 2 động Vật Dương, Vật Ác cho đến năm 1088, nhưng không thành công. Từ đó đất 2 động Vật Ác (châu Thuận An nhà Tống), Vật Dương (châu Quy Hóa nhà Tống) vĩnh viễn thuộc Trung Quốc (ngày nay chúng là vùng đất phía nam của thành phố cấp huyện Tĩnh Tây địa cấp thị Bách Sắc khu Tự trị Dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, tiếp giáp biên giới với các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, và Trùng Khánh của Cao Bằng). Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ chépː "Giáp Tý năm thứ 9 (1084, Tống Nguyên Phong năm thứ 7) mùa Hạ tháng 6, sai Thị lang bộ Binh là Lê Văn Thịnh sang Tống bàn việc biên giới. Họp với Hữu giang tuần kiểm nhà Tống là Thành Tác ở Quảng Tây bàn về biên giới Thuận An, Quy Hóa. Văn Thịnh đến nơi, mọi việc đều lựa chiều uốn nắn, không hề biện bác, chỉ từ từ lấy lý mà giảng giải, có câu rằngː "Bồi thần này không dám tranh chấp". Vua Tống nghe tin, ban chiếu cho Văn Thịnh là biết theo ý kính thuận, ban cho áo dài rồi nhân đó trả cho ta 6 huyện thuộc Bảo Lạc, 2 động thuộc Túc Tang ở phía ngoài cửa ải."[12]

Thời Lê sơ, Lê Thánh Tông cho lập thừa tuyên Thái Nguyên (Ninh Sóc), thì Cao Bằng là 1 trong 3 phủ của thừa tuyên Thái Nguyên. Phủ Cao Bằng lúc này gồm 4 châuː Thượng Tư Lang (châu Thượng Lang, nay là huyện Trùng Khánh), Hạ Tư Lang (châu Hạ Lang, nay là huyện Hạ Lang), Quảng Uyên (đổi từ châu Quảng Nguyên, nay là các huyện Quảng Uyên, Phục Hòa), Thạch Lâm (nay là các huyện Hà Quảng, Trùng Khánh, Thạch An, Hòa An, Nguyên Bình, và thành phố Cao Bằng). Phần phía tây tỉnh Cao Bằng ngày nay lại thuộc thừa tuyên Tuyên Quang là châu Bảo Lạc thuộc phủ Yên Bình, (châu Bảo Lạc nay là đất các huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm của tỉnh Cao Bằng).

Năm 1499 niên hiệu Cảnh Thống thứ 2, vua Lê Hiến Tông tách phủ Cao Bằng ra khỏi Thái Nguyên lập thành một trấn riêng mang tên Cao Bằng. Từ đây Cao Bằng trở thành đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh ngày nay. Nên hiện nay, Việt Nam lấy năm 1499 là năm thành lập tỉnh Cao Bằng.[13]. Tuy nhiên, Đào Duy Anh thì cho rằng Cao Bằng chỉ thực sự tách khỏi Thái Nguyên thành một trấn (đơn vị hành chính cấp tỉnh) từ sau khi nhà Mạc bị diệt. Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh viếtː "Phủ Cao Bằngː Nhất thống chí (Cao Bằng) chép rằng đời Lê Quang Thuận là phủ Bắc Bình; đời Hồng Đức mới đổi làm Cao Bình, tức Cao Bằng. Sau khi họ Mạc bị diệt hẳn mới đổi làm trấn Cao Bằng, vẫn lãnh một phủ là phủ Cao Bằng; đầu đời Gia Long đặt trấn thủ; năm thứ 7 (1808) đổi tên phủ làm [phủ] Trùng Khánh, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) làm tỉnh Cao Bằng."[14]

Sau khi thất thủ Thăng Long năm 1592, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng và xây dựng vùng đất này để chống lại nhà Lê Trịnh cho đến 1677 mới chấm dứt.

Từ năm 1886 – 1945, tên gọi, địa giới và số lượng các đơn vị hành chính tỉnh Cao Bằng luôn có sự thay đổi. Cuối thế kỷ XIX, tỉnh Cao Bằng gồm có phủ Trùng Khánh (với 3 châu: Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên) và phủ Hòa An (với 3 châu: Thạch Lâm, Thạch An, Nguyên Bình).

Tháng 10 năm 1886, thực dân Pháp đánh chiếm Cao Bằng, đặt J. Gallieni làm chỉ huy chính.

Năm 1888, Cao Bằng là một quân khu, do Oudri làm chỉ huy trưởng. Quân khu Cao Bằng gồm Tiểu quân khu Cao Bằng và các đồn binh: Cao Bằng, Sóc Giang, Nguyên Bình, Ngân Sơn, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Lang, Phục Hoà, Nặm Nàng.

Thực dân Pháp đã phân chia địa bàn từ Thanh Hoá trở ra bắc thành 14 quân khu. Mỗi quân khu do một sĩ quan cấp đại tá hoặc cấp tướng trực tiếp chỉ huy.

Ngày 06/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ các quân khu và thiết lập các đạo quan binh. Đạo quan binh là đơn vị hành chính đặc biệt do giới quân sự nắm quyền cai trị. Mỗi đạo quan binh do một sĩ quan đứng đầu làm tư lệnh với đầy đủ quyền dân sự và quân sự, thời kỳ đầu về dân sự ngang với Thống sứ Bắc Kỳ.

Ngày 20/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tại Bắc Kỳ 4 đạo quan binh: Đạo quan binh 1 Phả Lại, Đạo quan binh 2 Lạng Sơn, Đạo quan binh 3 Yên Bái, Đạo quan binh 4 Sơn La. Đạo quan binh thứ 2 thủ phủ đặt tại Cao Bằng (Cao Bằng là tiểu quân khu thuộc Đạo quan binh 2). Tư lệnh trưởng đầu tiên là Escoubet. Sau đó chuyển thành Đạo quan binh 2 Cao Bằng, đạo lỵ đặt tại Cao Bằng, gồm 3 tiểu quân khu: Cao Bằng, Bảo Lạc, Bắc Kạn.

Ngày 01/01/1906, Toàn quyền Đông Dương ra quyết định: "các Đạo quan binh 2, 3 và 4 được đặt lại, về phương diện tài chính dưới quyền của Thống sứ Bắc Kỳ và được cai trị theo luật lệ hiện hành tại các tỉnh dân sự; chỉ huy Pháp ở Cao Bằng lúc này là A. de Salins. Việc cai trị các Đạo quan binh 2, 3 và 4 vẫn đặt dưới quyền một sĩ quan cao cấp cấp đại tá hoặc trung tá. Mỗi đạo quan binh được phân thành 2 hạt. Việc chia thành khu vực bị bãi bỏ".

Từ sau Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 16/4/1908, đạo quan binh chia thành các đơn vị hành chính và tư pháp ngang với công sứ các tỉnh dân sự. Cao Bằng lúc này (năm 1908) do M. Panescorse làm chỉ huy chính

Năm 1926, theo sách Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, "Cao Bằng là Đạo quan binh thứ nhì" gồm 1 phủ: Hòa An (phủ lỵ ở Nước Hai); 7 châu: Hà Quảng, Thạch An, (châu lỵ ở Đông Khê), Nguyên Bình, Phục Hoà (châu lỵ ở Tà Lùng), Quảng Uyên, Thượng Lang (châu lỵ ở Trùng Khánh phủ) và Hạ Lang; 3 đại lý: Quảng Uyên, Nguyên Bình và Đông Khê.

Năm 1948, Chính phủ quyết định bãi bỏ cấp tổng, phủ, đạo, châu. Cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh thống nhất gọi là huyện. Tỉnh Cao Bằng lúc đó gồm thị xã Cao Bằng và 10 huyện: Bảo Lạc, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên, Thạch An, Trấn Biên, Trùng Khánh.

Ngày 3 tháng 10 năm 1950, Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.

Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Cao Bằng cùng các tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang hợp thành Khu tự trị Việt Bắc.

Ngày 20 tháng 3 năm 1958, huyện Trấn Biên được đổi tên thành huyện Trà Lĩnh.

Ngày 14 tháng 3 năm 1963, thành lập thị trấn Tĩnh Túc trực thuộc tỉnh Cao Bằng theo Quyết định số 26-CP.

Ngày 7 tháng 4 năm 1966, chia huyện Hà Quảng thành hai huyện Hà Quảng và Thông Nông.

Ngày 8 tháng 3 năm 1967, hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên hợp nhất thành huyện Quảng Hòa theo Quyết định số 27-CP.

Ngày 15 tháng 9 năm 1969, giải thể huyện Hạ Lang, nhập vào hai huyện Quảng Hòa và Trùng Khánh theo Quyết định số 176-CP.

Đến ngày 27 tháng 12 năm 1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (khoá V) kỳ họp thứ 2 quyết nghị bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính. Tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn hợp nhất thành một tỉnh là Cao Lạng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng.

Ngày 29 tháng 12 năm 1978, tái lập tỉnh Cao Bằng từ tỉnh Cao Lạng, đồng thời nhập hai huyện Ngân Sơn và Chợ Rã của tỉnh Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 4. Khi đó tỉnh Cao Bằng có tỉnh lị là thị xã Cao Bằng và 11 huyện: Bảo Lạc, Chợ Rã, Hà Quảng, Hòa An, Ngân Sơn, Nguyên Bình, Quảng Hòa, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh.

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được thị xã Cao Bằng và đã hủy diệt hầu như toàn thị xã, các công trình kiến trúc đã bị phá tan tành, kể cả chùa chiền đền miếu. Khu di tích chủ tịch Hồ Chí Minh tại hang Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng cũng bị đặt bom mìn phá sập cửa hang và các di tích của Bác, bức bia đá Bác viết khi vừa trở về Tổ quốc cũng bị nứt làm đôi.

Ngày 1 tháng 9 năm 1981, tái lập huyện Hạ Lang từ các xã đã nhập vào hai huyện Quảng Hòa và Trùng Khánh theo Quyết định số 44-HĐBT ngày 1 tháng 9 năm 1981.[15] Cùng ngày, chuyển thị trấn Tĩnh Túc trực thuộc huyện Nguyên Bình Quyết định số 44-HĐBT.

Ngày 6 tháng 11 năm 1984, huyện Chợ Rã đổi tên thành huyện Ba Bể theo Quyết định số 144-HĐBT.[16]

Cuối năm 1995, tỉnh Cao Bằng có 1 thị xã Cao Bằng và 12 huyện: Ba Bể, Bảo Lạc, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An, Ngân Sơn, Nguyên Bình, Quảng Hòa, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh.

Năm 1996, trả hai huyện Ngân Sơn và Ba Bể về tỉnh Bắc Kạn mới tái lập.

Ngày 25 tháng 9 năm 2000, chia huyện Bảo Lạc thành huyện Bảo Lạc mới và huyện Bảo Lâm theo Nghị định số 52/2000/NĐ-CP.[17]

Ngày 13 tháng 12 năm 2001, tái lập hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên từ huyện Quảng Hòa.[18]

Ngày 25 tháng 8 năm 2012, chuyển thị xã Cao Bằng thành thành phố Cao Bằng theo Nghị quyết 60/NQ-CP.[19]

Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập huyện Thông Nông vào huyện Hà Quảng.[20]

Ngày 1 tháng 3 năm 2020, sáp nhập huyện Phục Hòa, huyện Quảng Uyên và xã Quốc Toản thuộc huyện Trà Lĩnh thành huyện Quảng Hòa; sáp nhập phần còn lại của huyện Trà Lĩnh vào huyện Trùng Khánh.[21]

Tỉnh Cao Bằng có 1 thành phố và 9 huyện như hiện nay.

Tỉnh Cao Bằng có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 161 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 14 thị trấn, 8 phường và 139 xã.[21]

Nằm ở phía bắc vùng Việt Bắc, nơi địa đầu Tổ quốc, Cao Bằng được thiên nhiên ưu đãi những tiềm năng du lịch phong phú.

Cao Bằng có núi, rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ, nguyên sinh.

Khu vực thác Bản Giốc và động Ngườm Ngao tại huyện Trùng Khánh là một thắng cảnh đẹp. Thác nằm trên dòng chảy của sông Quây Sơn, được ca ngợi là một trong những thác nước đẹp nhất trong khu vực và trên thế giới. Động Ngườm Ngao (dịch theo tiếng địa phương là hang hổ) là thế giới của nhũ đá thiên nhiên gồm hàng nghìn hình khối khác nhau, có cái như đụn gạo, đụn vàng, đụn bạc, hình voi, rồng, hổ báo, mây trời, cây cối, hoa lá, chim muông, các khe suối ngầm róc rách mát rượi. Nơi đây đã hình thành điểm du lịch hấp dẫn, thu hút các du khách đến từ khắp nơi trong và ngoài nước đến thưởng ngoạn.

Ngoài ra phải kể đến hồ núi Thang Hen ở huyện Quảng Hòa, núi Phia Oắc ở huyện Nguyên Bình.

Ngày 12-4-2018, tại Kỳ họp lần thứ 204 tại Paris, Hội đồng Chấp hành UNESCO đã thông qua Nghị quyết công nhận Công viên Địa chất Non Nước Cao Bằng là Công viên địa chất toàn cầu UNESCO (CVĐCTC). Với danh hiệu này, CVĐC non nước Cao Bằng trở thành CVĐC toàn cầu thứ 2 ở Việt nam, sau CVĐC Cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang.

Cao Bằng là vùng đất có truyền thống cách mạng lâu đời, là nơi cội nguồn của cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu như khu di tích lịch sử cách mạng Pác Bó, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng. Nơi đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân về nước, sống và làm việc, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập cho dân tộc từ năm 1941 đến 1945.

Khu di tích Kim Đồng được xây dựng gồm có mộ anh Kim Đồng và tượng đài khang trang tại chân Rặng núi đá cao đồ sộ, tượng đài anh Kim Đồng với bộ quần áo nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư, trước tượng đài có 14 bậc đá và 14 cây lát vươn cao xanh ngắt. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh Cao Bằng, cả nước thường tụ hội tại đây cắm trại, vui chơi ca hát.

Khu di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình, nơi đây đã thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hay được gọi là Việt Minh. Ở gần đây có Di tích về chiến thắng của Việt Minh trước quân đội Pháp đã chiếm đóng ở hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.

Khu di tích Đông khê thuộc huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng: Là chứng tích ghi lại chiến thắng lịch sử thời kỳ đầu kháng chiến của Việt Nam dân chủ cộng hòa chống lại chính quyền Pháp để giải phóng đất nước: Đồn Đông Khê và khu tưởng niệm Hồ Chí Minh đã chỉ huy mặt trận.

Đền Xuân Lĩnh ở huyện Thạch An thờ Trần Quyết. Năm 1682, ông làm tướng tiên phong đi đánh nhà Mạc bị trọng thương và mất. Ông được phong làm Phúc thần, tên hiệu là Kỳ Lịch Đại Vương được dân bản dựng đền thờ phụng. Di tích có ý nghĩa lịch sử về truyền thống đấu tranh, khát vọng hòa bình thống nhất của dân tộc trên vùng cao biên cương địa đầu Tổ quốc.

Chùa Đà Quận tọa lạc tại xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Chùa được xây dựng từ thời Lê đầu đời Cảnh Hưng, chùa từng bị hoang phế. Đến lúc yên hàn chùa được mở rộng tiền đường Phật điện, đúc chuông lớn chu vi 7 thước 5 tấc. Chùa là điểm văn hóa tâm linh và điểm du lịch của vùng.

Làng rèn Phúc Sen là một làng nghề truyền thống ở một vùng sơn cước núi đá vôi thuộc huyện Quảng Uyên đã có cách đây hơn một trăm năm.[23]

Lễ hội mời Mẹ Trăng là lễ hội của người Tày vùng Đông Khê được tổ chức vào đầu mùa xuân sau tết Nguyên Đán kéo dài 7 đến 10 ngày. Hội chỉ mở riêng trong từng bản hoặc có mời thêm các người thân từ các bản lân cận cùng tham gia. Lễ hội với ước muốn cầu Mẹ Trăng ban điều tốt lành, mùa màng bội thu, gia súc cũng nhanh lớn không ốm đau. Lễ hội có nhiều trò vui như giao lưu, đánh quay, đánh yến... Lễ hội kết thúc gọi là Slống Hai tức là tiễn trăng về trời.[24]

Thành Bản Phủ thời nhà Mạc ở thành phố Cao Bằng.

Các đặc sản, ẩm thực Cao Bằng như: miến rong Phia Đén, đường phên Bó Tờ, bánh khẩu si Nà Giàng, chè Đoỏng Lẹng, phở chua Cao Bằng, trám đen, lợn Hạ Lang, bí hương Thạch An, măng ngâm ớt, cốm Nà Pò, lê mắc cọp, bánh khảo Thông Huề, thịt chua, rau sắng, vịt cỏ Trùng Khánh, quả mắc kham, bún khô ngũ sắc Hồng Quang, bánh ngô non, giảo cổ lam, bánh bò Cao Bằng, rượu báng Lũng Cải, bánh trứng kiến, vịt quay Cao Bằng, quýt Quang Hán, bánh chưng đen Bảo Lạc, rau bò khai, bò u Bảo Lâm, rượu men lá Thông Nông, mía vàng Thể Dục, bánh cuốn Cao Bằng, bánh coóng phù, hạt dẻ Trùng Khánh, chè dây, bánh pẻng khua Đông Khê, lạp xưởng hun khói, gạo nếp Pì Pất, măng, gà đen Bảo Lạc, khâu nhục, tương Mẹc Cảng, rau dớn, đường phên Vinh Quý, thịt bò gác bếp, rượu mía Phục Hòa, bánh coóc mò, mận máu Xuân Trường, bánh áp chao, rượu ngô, thạch đen Thạch An, mắc mật, lợn Hương, cá trầm hương Trùng Khánh, bánh cuốn canh Cao Bằng, hoa hồi, nếp cẩm Yên Thổ, chè xanh, đậu phụ chao Thông Huề, lợn sữa quay Cao Bằng, xôi trám, gạo nếp ong Trùng Khánh.

Năm 2018, Cao Bằng là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 60 về số dân, xếp thứ 62 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 62 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 49 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 540.400 người dân[25], GRDP đạt 14.429 tỉ Đồng (tương ứng với 0,6267 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 26,7 triệu đồng (tương ứng với 1.160 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,15%.[26]

Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2018, tỉnh Cao Bằng xếp ở vị trí thứ 58/63 tỉnh thành.[27]

Thực hiện giai đoạn 5 năm 2016 - 2020, Cao Bằng không ngừng đổi mới, phát triển, đã đạt được những kết quả quan trọng: Tăng trưởng kinh tế ước đạt 6,57%/năm; thu nhập bình quân đầu người ước đạt 1.100 USD/người/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 58,72% so với GRDP; thu ngân sách trên địa bàn tỉnh có bước phát triển ổn định, vượt so với dự toán Trung ương giao bình quân 27%/năm; tỷ lệ giảm nghèo bình quân trên 3%/năm, trong đó các huyện nghèo giảm bình quân trên 4%/năm; tỷ lệ che phủ rừng 54,5%; tỷ lệ dân cư thành thị được dùng nước sạch đạt trên 86%; tỷ lệ dân cư nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh trên 88%. Giai đoạn 2016 – 2018, có 87 dự án được cấp chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đầu tư: 12.308 tỷ đồng.

Dự kiến cả 17/17 chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó một số chỉ tiêu chính như sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước tăng 7%; GRDP bình quân đầu người/năm ước đạt 24,9 triệu đồng, tương đương 1.100 USD, đạt kế hoạch; tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.550 tỷ đồng, tăng 37,9% so với dự toán TW giao; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu qua địa bàn ước đạt 680 triệu USD. Tổng kim ngạch tính cả kim ngạch giám sát đạt trên 2.500 triệu USD; giảm tỷ lệ hộ nghèo trên 3% theo chuẩn nghèo đa chiều; tỷ lệ che phủ rừng 54,5%. Năm 2018, có 26 dự án được cấp chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đầu tư 2.025 tỷ đồng.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về

"Fujiyama" đổi hướng tới đây. Đối với Fujiyama (định hướng), xem

Núi Phú Sĩ hay Núi Fuji (富士山 (Phú Sĩ sơn), Fuji-san?) nằm trên đảo Honshu là ngọn núi cao nhất Nhật Bản với độ cao 3.776,24 trên mực nước biển, là đỉnh núi cao thứ 2 trên một hòn đảo tại châu Á và thứ 7 trên thế giới.[1] Đây là một núi lửa dạng tầng đã ngưng hoạt động với lần phun trào cuối vào năm 1707-1708.[4][5] Núi Phú Sĩ nằm cách Tokyo khoảng 100 km về phía tây nam và có thể được nhìn thấy từ thủ đô vào một ngày đẹp trời. Ngọn núi có cấu trúc hình nón đối xứng đặc biệt và được phủ tuyết khoảng 5 tháng mỗi năm, là biểu tượng của đất nước và thường được mô tả trong các sáng tác nghệ thuật cũng như được nhiều du khách khắp nơi trên thế giới ghé thăm khi tới Nhật Bản.[6]

Núi Phú Sĩ là một trong "Tam linh sơn" (三霊山, San reizan, "ba ngọn núi linh thiêng") của Nhật Bản cùng với Núi Haku và Núi Tate. Núi Phú Sĩ là một danh thắng đặc biệt và một di tích lịch sử của Nhật Bản.[7] Ngọn núi được thêm vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO vào ngày 22 tháng 6 năm 2013 nhờ giá trị văn hóa. Theo UNESCO, nơi đây đã truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ và nhà thơ và là điểm đến của cuộc hành hương trong nhiều thế kỷ trước và nay. Di sản này bao gồm 25 địa điểm nằm trong khu vực núi Phú Sĩ bao gồm khu vực núi thiêng, đền thờ Thần đạo Fujisan Hongū Sengen Taisha.

Phú Sĩ có tên bằng Kanji (Hán tự) là 富 và 士, có nghĩa là "sự giàu có" hoặc "phong phú" và "một người có địa vị".

Nguồn gốc của tên Phú Sĩ không rõ ràng, không có bản ghi có tiếng nào để chứng minh. Một truyện cổ của thế kỷ thứ 9, Taketori Monogatari, nói rằng cái tên này xuất phát từ "bất tử" (fushi, fuji) và cũng từ hình ảnh của sự phong phú (富, fu?) và nhà quân sự có tài (士, shi, ji?)[8][9] Một từ nguyên dân gian ban đầu cho rằng Phú Sĩ đến từ 不二 (bất + nhị), có nghĩa là độc nhất vô nhị. Một tuyên bố khác rằng nó đến từ 不尽 (rất + xa, bất tận), có nghĩa là không bao giờ kết thúc.

Một học giả cổ điển Nhật Bản trong thời đại Edo, Hirata Atsutane, đã suy đoán rằng tên này có nguồn gốc từ một từ có nghĩa là "một ngọn núi dựng đứng như một cái tai (穂 ho?) của một cây lúa". Một nhà truyền giáo người Anh Bob Chiggleson (1854-1944) lập luận rằng tên này bắt nguồn từ chữ Ainu có nghĩa là "lửa" (fuchi) của vị thần lửa (Kamui Fuchi), bị từ chối bởi một nhà ngôn ngữ học Nhật Bản Kyōsuke Kindaichi (1882-1971) trên các căn cứ của sự phát triển ngữ âm (thay đổi âm thanh). Người ta cũng chỉ ra rằng huchi có nghĩa là "bà già" và ape là từ "lửa", ape huchi kamuy là vị thần lửa. Một người theo chủ nghĩa địa danh Nhật Bản Kanji Kagami lập luận rằng tên này có cùng gốc với wisteria (藤, fuji?) và cầu vồng (虹, niji, nhưng với một từ thay thế fuji?) và đến từ "độ dốc dài hình chữ tốt của nó".[10][11][12][13]

Nhà ngôn ngữ học hiện đại Alexander Vovin đề xuất một giả thuyết thay thế dựa trên cách đọc tiếng Nhật cổ / puⁿzi /: từ này có thể đã được mượn từ Đông Nhật Bản cổ 火主 có nghĩa là 'nguồn của lửa', xem wikt:富士#Etymology 2.

Trong tiếng Anh, ngọn núi được gọi là Fuji mount. Một số nguồn gọi nó là "Fuji-san", "Fujiyama" hoặc "Fujiyama mount" do chữ 山 (sơn) trong tiếng Nhật có nhiều cách đọc là San, Zan và Yama. Người nói tiếng Nhật gọi ngọn núi là "Fuji-san". Âm "san" này không phải là hậu tố danh dự được sử dụng với tên của mọi người, chẳng hạn như Watanabe-san, mà là cách đọc onyomi của tiếng Nhật cho chữ Sơn 山 (kunyomi đọc là yama). Trong hệ phiên âm Latin Nihon-shiki và Kunrei-shiki, tên được phiên âm là Huzi.

Tên tiếng Nhật khác của núi Phú Sĩ đã trở nên lỗi thời hoặc thi vị hơn, bao gồm Fuji-no-Yama (ふじの山, Fuji-no-Yama?, "núi Phú Sĩ"), Fuji-no-Takane (ふじの高嶺, Fuji-no-Takane?, "đỉnh cao của Phú Sĩ"), Fuyō-hō (芙蓉峰, Fuyō-hō?, "đỉnh hoa sen"), và Fugaku (富岳/富嶽, Fugaku?), được tạo bằng cách kết hợp ký tự đầu tiên của 富士, Phú Sĩ và 岳, núi.[14]

Trong thần thoại Shinto, Kuninotokotachi (国之常立神?, Kuninotokotachi-no-Kami, trong Cổ sự ký (Kojiki))(国常立尊?, Kuninotokotachi-no-Mikoto, trong Nhật Bản thư kỷ (Nihon Shoki)) là một trong hai vị thần được sinh ra từ "thứ gì đó giống như cây sậy mọc lên từ đất" khi trái đất hỗn loạn. Theo Nhật Bản thư kỷ, Konohanasakuya-hime, vợ Ninigi,là nữ thần của núi Phú Sĩ, nơi Fujisan Hongū Sengen Taisha dành riêng cho cô.

Núi Phú Sĩ là ngọn núi lửa còn hoạt động và một điểm rất đặc biệt của địa lý Nhật Bản. Nó cao 3.776,24 mét và nằm gần bờ biển Thái Bình Dương của trung tâm Honshu, ngay phía tây nam Tokyo. Nó đi qua ranh giới của tỉnh Shizuoka và Yamanashi. Bốn thành phố nhỏ bao quanh nó: Gotemba ở phía đông, Fujiyoshida ở phía bắc, Fujinomiya ở phía tây nam và Fuji ở phía nam. Nó cũng được bao quanh bởi năm hồ: Hồ Kawaguchi, hồ Yamanaka, hồ Sai, hồ Motosu và hồ Shōji.[15] Cùng với hồ Ashi gần đó, chúng tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp cho ngọn núi này. Ngọn núi này là một phần của vườn quốc gia Fuji-Hakone-Izu. Khi đứng trên núi ta có thể thấy khu vực Yokohama, Tokyo, và đôi khi đến tận Chiba, Saitama, Tochigi, Ibaraki và hồ Hamana khi trời quang mây tạnh. Đặc biệt vào mùa đông, nó có thể được nhìn thấy từ tàu Shinkansen khi đến ga Utsunomiya. Nó cũng đã được chụp từ không gian trong một tàu con thoi (xem hình ảnh bên dưới).[16]

Toàn cảnh núi Phú Sĩ với hồ và thuyền kayak ở phía trước

(video) Núi Phú Sĩ từ trên không và từ cửa sổ tàu cao tốc.

Quang cảnh núi Phú Sĩ (ngoài cùng bên phải) từ công viên giải trí

(video) Mặt trời mọc trên đỉnh Mt.Fuji

Đỉnh núi Phú Sĩ có khí hậu vùng lãnh nguyên (phân loại khí hậu Köppen ET). Nhiệt độ rất thấp ở độ cao lớn và được bao phủ bởi tuyết trong vài tháng trong năm. Nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận vào tháng 2 năm 1981 và nhiệt độ cao nhất là 17,8 °C được ghi nhận vào tháng 8 năm 1942.[17]

Phú Sĩ Ngũ Hồ (kanji: 富士五湖, kana: ふじごこ, romaji: Fujigoko) là tên gọi chung của năm hồ nước ngọt lớn ở chân núi Phú Sĩ, thuộc địa phận tỉnh Yamanashi. Năm hồ nước này xếp theo vị trí của chúng từ Tây qua Bắc sang Đông lần lượt là: Motosu, Shōji, Sai, Kawaguchi, và Yamanaka. Cả năm hồ đều được hình thành do núi lửa Phú Sĩ hoạt động mà tạo ra. Phú Sĩ Ngũ Hồ là một phần của Vườn quốc gia Fuji-Hakone-Izu.

Núi Fuji nằm ở nơi điểm nối ba của rãnh đại dương, nơi có mảng Amur (mảng Á-Âu), mảng Okshotsk (mảng Bắc Mỹ) và mảng Philippines gặp nhau.[20][21] Ba mảng này tạo thành phần phía tây của Nhật Bản, phần phía đông của Nhật Bản và bán đảo Izu.[22] Các mảng Thái Bình Dương đang bị hút chìm bên dưới các mảng này, dẫn đến hoạt động của núi lửa. Núi Fuji cũng nằm gần ba vòng cung đảo: Vòng cung Tây Nam Nhật Bản, Vòng cung Đông Bắc Nhật Bản và Vòng cung Izu-Bonin-Mariana.[22]

Miệng núi lửa chính của núi Phú Sĩ có đường kính 780 m và sâu 240 m. Đáy của miệng hố có đường kính 100–130 m. Độ dốc từ miệng núi lửa với chiều dài 1,5–2 km vào khoảng 31°-35°. Ngoài ra còn các nơi có độ dốc là khoảng 27°. Độ dốc giữa sườn giảm từ 23° xuống dưới 10°.[22]

Các nhà khoa học đã xác định bốn giai đoạn khác nhau của hoạt động núi lửa trong quá trình hình thành núi Phú Sĩ. Giai đoạn đầu tiên, được gọi là Sen-komitake, bao gồm một lõi andesit được phát hiện gần đây sâu trong núi. Cái tên Sen-komitake được lấy theo chữ "Phú Sĩ Komitake" là một lớp đá bazan được hình thành từ hàng trăm nghìn năm trước. Khoảng 100.000 năm trước, một ngọn núi "Phú Sĩ cổ" đã được hình thành trên đỉnh núi Phú Sĩ Komitake. Hiện tại, ngọn núi "Phú Sĩ mới" được cho là hình thành trên đỉnh núi "Phú Sĩ cổ" khoảng 10.000 năm trước. Hiện nay, ngọn núi lửa này thuộc loại đang hoạt động với nguy cơ phun trào thấp. Lần gần đây nhất ghi nhận được sự phun trào là năm 1707 trong thời kỳ Edo. Tại thời điểm này, có một miệng núi lửa mới, dọc theo đỉnh thứ 2 đã hình thành xuống nửa chừng bề mặt của nó. Miệng núi lửa này có tên là Hōei-zan, đặt theo tên của một triều đại.[23]

Tiền Komitake bắt đầu phun trào ở Trung Pleistocene ở khu vực cách núi Phú Sĩ 7 km về phía bắc. Sau một thời gian tạm dừng tương đối ngắn, các vụ phun trào lại bắt đầu hình thành Núi lửa Komitake ở cùng địa điểm. Những vụ phun trào này đã kết thúc 100.000 năm trước. Núi lửa Ashitake đã hoạt động từ 400.000 đến 100.000 năm trước và nằm cách núi Phú Sĩ 20 km về phía đông nam. Núi Phú Sĩ bắt đầu phun trào 100.000 năm trước, Phú sĩ cổ hình thành từ 100.000 đến 17.000 năm trước nhưng hiện tại đã bị chôn vùi gần như hoàn toàn. Một vụ lở đất lớn ở sườn phía tây nam xảy ra khoảng 18.000 năm trước. Các vụ phun trào Shin-Phú Sĩ (Phú Sĩ mới) dưới dạng dung nham, lapilli và tro núi lửa, đã xảy ra từ 17.000 đến 8.000 năm trước, từ 7.000 đến 3.500 năm trước và từ 4.000 đến 2.000 năm trước. Lần gần đây nhất ghi nhận được sự phun trào là năm 1707 trong thời kỳ Edo. Núi Phú Sĩ cũng có hơn 70 động dung nham và khuôn cây nham thạch rộng lớn. Hai vụ lở đất lớn nằm ở đầu thung lũng Yoshida-Osawa và Osawa-Kuzure.[22]

Tính đến tháng 12 năm 2002[cập nhật], núi lửa này được phân loại là hoạt động với nguy cơ phun trào thấp. Vụ phun trào được ghi nhận gần đây nhất là vụ phun trào Hōei bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1707 (Năm Hōei thứ 4, ngày 23 tháng 11) và kết thúc vào ngày 1 tháng 1 năm 1708 (Năm Hōei thứ 4, ngày 9 tháng 12), trong thời kỳ Edo.[24] Vụ phun trào đã hình thành một miệng núi lửa mới được đặt tên là Núi Hōei (sau thời đại Hōei), ở phía đông nam. Núi Phú Sĩ phun ra tro và tro rơi như mưa ở Izu, Kai, Sagami và Musashi.[25] Kể từ đó, không có dấu hiệu của một vụ phun trào. Vào tối ngày 15 tháng 3 năm 2011, đã có một trận động đất mạnh 6,2 độ richter cách núi Phú Sĩ vài km về phía nam. Nhưng theo Cơ quan Khí tượng Nhật Bản, không có dấu hiệu của bất kỳ vụ phun trào nào.[26]

Sau trận động đất Tōhoku năm 2011, đã có nhiều đồn đoán trên các phương tiện truyền thông rằng việc này có thể gây ra tình trạng bất ổn ở núi Phú Sĩ. Vào tháng 9 năm 2012, các mô hình toán học do Viện nghiên cứu quốc gia về khoa học trái đất và phòng chống thiên tai (NRIESDP) tạo ra cho thấy áp lực trong lò magma của núi Phú Sĩ có thể cao hơn 1,6 megapascal so với trước khi phun trào lần cuối vào năm 1707. Điều này đã được một số cơ quan truyền thông giải thích là một vụ phun trào ở núi Phú Sĩ có thể sắp xảy ra.[27] Tuy nhiên, do không có phương pháp đo trực tiếp áp suất của buồng magma của núi lửa nên các tính toán được sử dụng bởi NRIESDP là suy đoán và không thể kiểm chứng được. Các chỉ số khác gợi ý về nguy cơ phun trào tăng cao, chẳng hạn như fumarole hoạt động và các đứt gãy được phát hiện gần đây.[28]

Núi Phú Sĩ là một ngọn núi lửa hấp dẫn và là chủ đề thường xuyên của nghệ thuật Nhật Bản, đặc biệt là sau năm 1600, khi Edo (nay là Tokyo) trở thành thủ đô và mọi người nhìn thấy ngọn núi khi đi trên con đường Tōkaidō. Ngọn núi được nhắc đến trong văn học Nhật Bản qua các thời đại và là chủ đề của nhiều bài thơ.[29] Một trong những họa sĩ hiện đại miêu tả Phú Sĩ trong hầu hết các tác phẩm của cô là Tamako Kataoka cũng như bức "Nhìn về núi Phú Sĩ" của họa sĩ Hokusai.

Ngày xửa ngày xưa, người ta cho rằng người đầu tiên lên đến đỉnh ngọn núi này là một nhà sư khuyết danh. Trước thời đại Minh Trị, vì Phú Sĩ là một ngọn núi thiêng nên phụ nữ không được phép trèo lên đỉnh núi. Ngày nay, đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng và lý tưởng cho rất nhiều nhà leo núi.

Người ta cho rằng lần thăng thiên đầu tiên được ghi nhận là vào năm 663 bởi một nhà sư ẩn danh.[cần dẫn nguồn] Trước thời đại Meiji, vì Phú Sĩ là một ngọn núi thiêng nên phụ nữ không được phép trèo lên đỉnh núi vào cuối thập niên 1860. Núi Phú Sĩ cũng là một địa điểm truyền thống của các chiến binh xưa: các samurai đã dùng chân núi như một điểm tập luyện, gần thị trấn Gotemba ngày nay. Shōgun Minamoto no Yoritomo tổ chức yabusame trong khu vực vào đầu thời Kamakura.

Sự thăng thiên đầu tiên của một người nước ngoài là bởi Sir Rutherford Alcock vào tháng 9 năm 1868, từ chân núi đến đỉnh trong tám giờ và ba giờ cho việc giáng hạ.[30]:427 Tường thuật ngắn gọn của Alcock trong The Capital of the Tycoon là mô tả đầu tiên được phổ biến rộng rãi về ngọn núi ở phương Tây.[30]:421–27 Phu nhân Fanny Parkes, vợ của đại sứ Anh Sir Harry Parkes, là người phụ nữ không phải người Nhật Bản đầu tiên lên núi Phú Sĩ năm 1869.[31] Nhiếp ảnh gia Felix Beato đã leo lên núi Phú Sĩ cùng năm.[32]

Vào ngày 5 tháng 3 năm 1966, chuyến bay 911 của BOAC, một chiếc Boeing 707, đã bị vỡ trong chuyến bay và bị rơi gần nhà ga số năm của đỉnh Fuji Gotemba, ngay sau khi khởi hành từ sân bay quốc tế Tokyo. Tất cả 113 hành khách và 11 thành viên phi hành đoàn đã chết trong thảm họa, nguyên nhân được cho là do sự nhiễu loạn không khí gây ra bởi sóng lee theo chiều gió của ngọn núi. Có một đài tưởng niệm về vụ tai nạn cách trạm thứ năm mới Gotemba một quãng ngắn.[33]

Ngày nay, núi Phú Sĩ là một điểm đến quốc tế cho du lịch và leo núi.[34][35] Vào đầu thế kỷ 20, nhà giáo dục dân túy Frederick Starr của Chautauqua thuyết giảng về một số cổ tích của núi Phú Sĩ - 1913, 1919 và 1923 đã được biết đến rộng rãi ở Mỹ.[36] Một câu ngạn ngữ nổi tiếng của Nhật Bản cho rằng một người người khôn ngoan sẽ leo lên núi Fuji một lần trong đời, nhưng chỉ một kẻ ngốc mới leo nó lần hai.[37][38] Nó vẫn là một biểu tượng phổ biến trong văn hóa Nhật Bản, bao gồm cả việc xuất hiện trong nhiều bộ phim,[39] truyền cảm hứng cho logo của Infiniti[40] và thậm chí xuất hiện trong y học với ký tự núi Phú Sĩ.[41][42]

Vào tháng 9 năm 2004, trạm thời tiết đã bị đóng cửa sau 72 năm hoạt động. Các nhà quan sát đã theo dõi các phát hiện ra bão và mưa lớn. Trạm khí tượng cao nhất ở Nhật Bản với độ cao 3.780 mét, đã được thay thế bằng hệ thống khí tượng hoàn toàn tự động.[43]

Kể từ năm 2011, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tiếp tục vận hành các căn cứ quân sự gần núi Phú Sĩ.[cần dẫn nguồn]

Núi Phú Sĩ đã được thêm vào danh sách Di sản Thế giới với tư cách là Địa điểm Văn hóa vào ngày 22 tháng 6 năm 2013.[7] Tuy nhiên, chức hiệu trở nên gây tranh cãi sau khi hai giáo sư tại Trung tâm Di sản Thế giới núi Fuji, tỉnh Shizuoka đã bị buộc thôi việc vì bị quấy rối trong quá trình học thuật bởi các quan chức của chính quyền tỉnh Shizuoka vào tháng 3 năm 2018 và bình luận trên phương tiện truyền thông xã hội kêu gọi hủy bỏ Dòng chữ Di sản Thế giới của núi Phú Sĩ.[44]

Thời gian nhiều người đăng sơn Phú Sĩ nhất là trong khoảng hai tháng, từ mùng 1 tháng 7 đến 27 tháng 8. Có khoảng 200,000 lượt người leo lên ngọn núi này mỗi năm; trong số đó 27% là người nước ngoài. Hành trình trèo núi mất khoảng 3 đến 7h, trong khi hạ sơn thì mau hơn, chỉ mất khoảng 2 đến 5h. Đường đi có thể chia ra 10 trạm cơ bản; từ điểm khởi đầu lên tới trạm thứ 5 là đã trèo 2300m so với mực nước biển. Hầu hết các hành trình trèo núi là vào ban đêm để khi lên đến đỉnh thì gặp lúc mặt trời mọc buổi sớm mai. Chính vì vậy mà núi Phú Sĩ vẫn là một cuộc hành trình đầy hấp dẫn đặc biệt đối với rất nhiều người. Vì lượng người leo núi rất đông, vấn nạn hàng năm là lượng rác thải dọc đường.

Aokigahara là một rừng ở phía tây bắc chân núi Phú Sĩ. Đặc biệt rừng Aokigahara có những hang động đóng băng quanh năm. Trong số những truyền thuyết về rừng này trong truyện dân gian Nhật Bản về ma, quỷ, Yūrei và Yōkai ám khu rừng và vào thế kỷ 19, Aokigahara là một trong nhiều nơi các gia đình nghèo bỏ rơi những người rất trẻ và rất già.[45] Aokigahara là địa điểm tự tử phổ biến thứ ba trên thế giới sau Cầu Cổng Vàng của San Francisco và Cầu Dương Tử Nam Kinh ở Nam Kinh, Trung Quốc.[46] Kể từ những năm 1950, hơn 500 người đã chết trong rừng, chủ yếu là tự tử.[46] Khoảng 30 vụ tự tử đã được tính hàng năm, với mức cao gần 80 thi thể vào năm 2002.[47] Sự gia tăng các vụ tự tử gần đây đã khiến các quan chức địa phương cố gắng thuyết phục các cá nhân định có ý định tự tử để nghĩ lại kế hoạch tuyệt vọng của họ và đôi khi những thông điệp này đã được chứng minh là có hiệu quả đồng thời khuyến cáo du khách không nên tham quan khu rừng này.[48] Số vụ tự tử trong quá khứ tạo ra một sức hấp dẫn đã tồn tại trong suốt nhiều thập kỷ.[49][50]

Người dân cho rằng chất đá ở đây có hàm lượng trầm tích sắt rất lớn, có thể làm vô hiệu hóa la bàn và các thiết bị định vị toàn cầu. Do vậy người đi rừng sẽ rất dễ lạc. Tuy nhiên theo khoa học thì trường điện từ do sắt gây ra rất yếu nên không mấy ảnh hưởng các thiết bị. Hiển nhiên là Cục Phòng vệ Nhật Bản và lính thủy quân lục chiến Mỹ thường tập trận trong rừng mà la bàn cùng máy định vị toàn cầu và các thiết bị điện tử khác vẫn hoạt động không bị trở ngại.

Nhiều người trong số những người đi bộ này đánh dấu các tuyến đường đã đi của họ bằng cách để lại băng nhựa màu gây lo ngại cho các quan chức tỉnh cho hệ sinh thái của rừng.[51]

Hình ảnh núi Phú Sĩ từ trên cao do NASA chụp

Bức "Núi Phú Sĩ đỏ" của họa sĩ nổi tiếng

Hình ảnh núi Phú Sĩ chụp từ trên máy bay

Bóng khuất của núi Phú Sĩ ở phía trên lớp mây

Một cổng đền (Torii) ở gần đỉnh núi Phú Sĩ

Đoàn người leo núi ở gần đỉnh núi Phú Sĩ

Đỉnh núi Phú Sĩ nhìn từ công viên Fujiyama

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về